
Gia đình anh Võ Văn Dùng đã tìm thêm việc làm khác ngoài nghề cá - Ảnh: AN VI
Qua tháng giêng, khi nước hồ Dầu Tiếng (Tây Ninh) rút, những xóm nhà sàn lụp xụp được chống dựng từ gỗ vụn của Việt kiều Campuchia bắt đầu rõ dần. Họ đã sống qua 2-3 thế hệ ở đây, vẫn còn nhiều cảnh đời cơ cực, nhưng không ít người cũng đang cố gắng đổi thay dần cảnh nghèo.
Xóm Cam Tà Dơ, xóm Cam Đồng Kèn, xóm Cam Tân Thành... Mấy năm gần đây, người dân huyện Tân Châu (Tây Ninh) chỉ còn nhắc đến vài xóm Việt kiều lác đác cuối cùng dọc bờ hồ Dầu Tiếng.
Xóm nghèo đã đỡ hơn xưa
So với chục năm trước, số xóm và người cơ cực từ biển hồ Tonle Sap, Campuchia về đây đã giảm đi đáng kể, đồng thời số người "thoát" được xóm nghèo cũng ngày một tăng.
Men theo đường tới bờ đông hồ Dầu Tiếng, càng về cuối đường, mấy ngôi nhà lụp xụp dựng tạm bằng tràm, gỗ vụn ẩn hiện khắp bên bờ hồ. Song theo ông Nguyễn Văn Hiền (76 tuổi), người sống ở xóm Việt kiều ấp Tà Dơ hơn 20 năm qua, như vầy đã đỡ hơn trước rất nhiều.
Bên cạnh nhà sàn đặc trưng của bà con Việt kiều, nhà nền bê tông, nhà dựng bằng tôn có điện nước riêng đã xuất hiện nhiều hơn bên kia đường. Đó cũng là Việt kiều về từ Campuchia, sau thời gian bám trụ bên bờ hồ, họ để dành được tiền mua miếng đất nhỏ để cất nhà trên bờ. Còn với hộ dân vẫn sống trên nhà sàn, nay cũng đã kéo được điện, có nước sạch để xài vào mùa khô.
Dẫn chúng tôi đến căn nhà rộng chừng 10m2 của mình, ông Hiền nói đây là mồ hôi và nước mắt ông đã nỗ lực suốt gần 20 năm. "Bận đầu về đây không có giấy tờ, cục đất chọi chim cũng không. Mấy anh em mới bán xuồng, mua cây, xin cây về dựng cái nhà sàn ở tạm. Hồi thời tui, cá mắm còn đỡ chứ không hẻo như giờ, tích cóp mua được miếng đất dựng cái nhà tôn ở tới nay", ông Hiền kể.
Như lời ông Hiền nói, lượng sản vật của hồ Dầu Tiếng 44 năm tuổi đã giảm đi đáng kể, nhất là khi nhiều Việt kiều Campuchia về đây đánh bắt.
Con trai lớn của ông Hiền trước đây sống bằng nghề cá, đã bán chiếc vỏ lãi, cùng vợ lên Bình Dương làm công nhân. Hay với người con thứ hai cũng tự nuôi được chính mình khi đi cạo cao su.
"Hồi trước làm gì ngon như vậy, cá mắm mà không có coi như đói. Bây giờ nhiều sở làm, bà con bán bớt vỏ lãi, ngư cụ lên bờ làm ăn. Cực thì có cực nhưng không còn quá bấp bênh như trước", người đàn ông có thâm niên bậc nhất trong xóm đánh giá. Ông khẳng định nhiều bà con vẫn còn khổ, nhưng cũng có những người đang dần đổi thay được phận nghèo...

Chị Lê Thị Diên đã thoát được xóm nghèo, lên thị trấn làm ăn
Tìm cho mình cơ hội mới
Chẳng nói đâu xa, ông Hiền chỉ qua căn nhà sàn sát bên, nơi vợ chồng anh Võ Văn Dùng (41 tuổi), chị Nguyễn Thị Thắm (42 tuổi) cùng 3 đứa con nhỏ đang ở. Sống đời ngư dân ở xóm nghèo suốt 7 năm, vợ chồng anh không nuôi nổi 5 miệng ăn khi ngày nào cũng lèo tèo vài con cá.
Anh Dùng quyết định bán vỏ lãi, lên thị trấn Tân Châu (cách đó 30km) làm phụ hồ, ở nhà chị Thắm lãnh 200 tờ vé số/ngày để có thêm tiền sinh hoạt. "Tui lên ban đầu chỉ làm cu li, dần dần được người ta chỉ xây này xây nọ giờ làm thợ phụ được ngày ba xị (300.000 đồng). Mà lãnh theo công trình, có tháng việc đều, có tháng ở không. Nói nào ngay vẫn đỡ hơn đi làm nghề cá", anh Dùng nói.
Người đàn ông hơn nửa đời sông nước thừa nhận ban đầu lo lắng khi quyết định bán vỏ lãi. "Cố mãi không được, phải thử sống kiểu khác, cá mắm gì ngày có mấy chục ngàn sao đủ nuôi con", anh Dùng kể.
Nhìn về phía bờ xa xa, anh Dùng nhẩm tính người trong xóm bỏ nghề cá lên bờ làm việc khác đã nhiều hơn quá nửa. Cách đây khoảng 7-10 năm, Việt kiều Campuchia như anh Dùng chỉ quẩn quanh với sông nước. Giờ người còn bám trụ nghề cá chủ yếu lớn tuổi, không ra ngoài làm việc được.
"Họ cũng phải làm cá nhiều hơn trước mới mong đủ sống, thay vì hồi trước sáng đi chài tới trưa về ngủ, nay họ phải đi mò thêm ốc kiếm mấy chục ngàn mua đồ ăn", anh Dùng nói về những người mưu sinh bằng nghề cá cuối cùng trong xóm.
Cũng trên thị trấn Tân Châu, chúng tôi gặp được chị Lê Thị Diên (47 tuổi), từng là người dân xóm Việt kiều Campuchia ở ấp Tà Dơ. Nhưng nay chị đã có nhà mặt đất khang trang, có quán bún riêu ngay mặt tiền đường lớn.
Chị nói nếu không phải mình liều bỏ nghề cá lên thị trấn làm, cũng chẳng có được như hôm nay: "Hồi 2012, tui lên đây đi rửa chén quán ăn, duyên số sao gặp được ông chồng người Huế vô đây làm. Ổng chưa vợ, tui gái lỡ thì, nên hai người cưới nhau rồi ổng xin ba mẹ vốn mở quán cho tui bán đồ ăn sáng. Vợ chồng được một mặt con rồi, nói chung đỡ hơn đi làm cá hồi xưa nhiều", chị Diên chia sẻ.
Thỉnh thoảng chị vẫn vào lại xóm cũ thăm hai người anh ruột. Chị khuyên hai anh mình nên lên thị trấn kiếm nghề khác làm, làm nghề cá không ăn thua mà ở lì đó riết sao có "lối ra".
Tâm sự của chị Diên cũng chính là câu chuyện đang cố gắng đổi thay của những bà con Việt kiều Campuchia khác. Những người đã dần đỡ nghèo khổ nhờ vượt qua được cảnh đời chỉ quanh năm còng lưng với tay lưới tay chèo như "lời nguyền" gắn chặt với sông nước…
Nỗ lực của chính quyền địa phương
Theo ông Hà Huy Châu, chủ tịch UBND xã Tân Thành, hiện nay trên địa bàn xã có 679 hộ với 3.737 nhân khẩu là người di cư tự do từ biển hồ Campuchia về tập trung tại khu vực lòng hồ Dầu Tiếng ấp Tà Dơ, ấp Tân Đông.
Đa số người dân trong các xóm Việt kiều không có giấy tờ tùy thân. "Họ cư trú không ổn định, chưa xác định được quốc tịch nên chưa được cấp giấy khai sinh. Với trẻ em được sinh ra tại Việt Nam, có giấy chứng sinh thì được cấp giấy khai sinh thông qua xác nhận có lưu trú ổn định của công an xã", ông Châu thông tin thêm.
Phía chính quyền địa phương đã nỗ lực hỗ trợ người dân xác nhận các giấy tờ để bổ sung hồ sơ cấp giấy khai sinh. Từ năm 2017 đến nay, UBND xã đã cấp khai sinh cho 674 trẻ em và 276 người trưởng thành, cấp căn cước công dân cho 251 người dân di cư tự do.
Chủ tịch UBND xã Tân Thành đánh giá so với khoảng 10 năm trước, cuộc sống người dân đã ổn định hơn, trẻ em được hỗ trợ học chữ, môi trường sống cải thiện hơn trước rất nhiều.
"Về nhà ở, có 179 hộ với 1.155 nhân khẩu được hỗ trợ tại khu tái định cư ấp Đồng Kèn 2. Chính quyền địa phương cũng vận động kinh phí hỗ trợ học tập, đào tạo nghề cho người di cư tự do", ông Châu cho biết.
Vẫn đau đáu giấy tờ, con chữ

Trẻ em xóm Việt kiều với nước da đen nhẻm và mái tóc đỏ hoe vì dang nắng mưa
Tuy nhiên, không phải ai cũng được may mắn như chị Diên, ông Hiền, họ là những người trong xóm có giấy tờ tùy thân. Phần còn lại của xóm, hàng chục năm qua vẫn sống cảnh "vô danh".
Xóm Việt kiều nghèo ngày đầu tuần hệt như cuối tuần, bởi tiếng cười ríu rít của mấy đứa trẻ đáng lý đã phải được đến trường. 3 đứa con tuổi tiểu học của anh Võ Văn Dùng tới giờ vẫn chưa thể tính được phép tính phức tạp, chưa đọc trôi chảy được một đoạn văn. Trong gia đình 5 người, chỉ có anh Dùng biết đọc, biết viết. Người đàn ông này cố chỉ lại con của mình trong những ngày không đi làm.
Chìa quyển vở dạy 3 đứa con, anh Dùng lắc đầu: "Hồi xưa tui học ở lớp học tình thương đâu được gần cả năm, rồi hay lướt mạng, riết mới đỡ đỡ. Chỉ lại tụi nhỏ có nhiêu đó chứ có biết gì nhiều hơn đâu".
Nhiều người dân trong xóm Việt kiều Tà Dơ này chung một niềm đau đáu, họ muốn đi làm công nhân, muốn đi xa kiếm việc, nhưng cái mác "Việt kiều Campuchia" không giấy tờ như sợi xích vô hình buộc chặt họ ở xóm nghèo này.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận